https://vnbusiness.vn/the-gioi/lieu-viet-nam-co-the-huong-loi-tu-con-sot-chip-toan-cau-1092871.html?fbclid=IwAR0AWbdOjx2uWObLmcBIRtRWoERHxhsltp-vCXvC_eYqf8u8qhRIlk-OpvU

Để tận dụng lợi thế từ xuất khẩu chip, Việt Nam phải điều chỉnh chính sách để nâng cao vị thế của mình trong chuỗi cung ứng và giảm sự phụ thuộc vào đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việt Nam cũng phải cung cấp đào tạo cho các lĩnh vực công nghệ cao và tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước hoạt động để sản xuất chip ‘Make in Vietnam’.

-7295-1685291511.png

Công nhân tại một nhà máy của Samsung ở Việt Nam, hiện là nhà xuất khẩu chip lớn thứ ba sang Mỹ.  Ảnh: SCMP

Việt Nam đang đi đầu trong làn sóng bán dẫn, với số liệu gần đây của chính phủ cho thấy Việt Nam hiện là nhà xuất khẩu chip lớn thứ ba sang Mỹ, sau Malaysia và Đài Loan (Trung Quốc).

Đáng chú ý, doanh thu chip tăng 75% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 562 triệu USD vào tháng 2 năm 2023. Nói một cách dễ hiểu, xuất khẩu tất cả các sản phẩm điện tử của Việt Nam sang Mỹ – bao gồm cả chất bán dẫn – chỉ đạt 110 triệu USD vào tháng 2 năm 2013.

Sự gia tăng xuất khẩu chip là một minh chứng cho vị trí chiến lược của Việt Nam trong bối cảnh căng thẳng Mỹ-Trung. Các công ty bị mắc kẹt trong chuỗi cung ứng chất bán dẫn đã chuyển sang Việt Nam, trong khi các công ty Mỹ cũng mong muốn đa dạng hóa nguồn chip đã tìm được đối tác đáng tin cậy tại Hà Nội.

-3976-1685291512.png

Thủ tướng Phạm Minh Chính và Chủ tịch Samsung Roh Tae-moon trong một cuộc họp năm ngoái. Tập đoàn Samsung của Hàn Quốc vào tháng 12 năm ngoái đã khánh thành một trung tâm R&D trị giá 220 triệu USD tại Hà Nội.  

Để chuyển những lợi ích này thành tăng trưởng dài hạn, Việt Nam phải điều chỉnh chính sách để thúc đẩy đào tạo nghề trong các ngành công nghệ cao và tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước. Hiện nay, phần lớn chip xuất khẩu của Việt Nam đến từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù không có sự cố về chất bán dẫn, nhưng các số liệu chính thức cho thấy 98% hàng điện tử xuất khẩu đến từ đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).

Tầm nhìn chiến lược của Việt Nam về chất bán dẫn đã được thể hiện rõ ràng ngay từ năm 2012, khi chính phủ mô tả các sản phẩm này là “hàng hóa và dịch vụ trọng điểm của quốc gia”.

Đầu năm nay, trong buổi tiếp ông John Neuffer, Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Bán dẫn Mỹ, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cho biết chip là “ưu tiên hàng đầu” của Việt Nam và đề nghị Mỹ đầu tư nhiều hơn vào lĩnh vực này.

Khi chất bán dẫn trở thành trụ cột của nền kinh tế toàn cầu, một ngành công nghiệp trị giá 600 tỷ USD làm nền tảng cho mọi sản phẩm điện tử từ điện thoại thông minh đến máy tính, trọng tâm chiến lược của Việt Nam là rất khôn ngoan.

Với trục kinh tế này, Việt Nam có thể nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu, thoát khỏi mô hình lao động giá rẻ và hiện đại hóa nền kinh tế để đáp ứng mục tiêu của chính phủ là trở thành quốc gia phát triển và GDP bình quân đầu người vượt 18.000 USD vào năm 2045, một mục tiêu để kỷ niệm 100 năm Việt Nam độc lập.

Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc thu hút các công ty bán dẫn lớn đầu tư vào Việt Nam. Intel là tập đoàn lớn đầu tiên vận hành một phần quy trình sản xuất chip tại Việt Nam, với nhà máy tại Thành phố Hồ Chí Minh cung cấp 3 tỷ sản phẩm bán dẫn trên toàn thế giới vào năm 2021.

-9668-1685291512.png

Tòa nhà Viettel tại Hà Nội, Việt Nam. Ảnh: Shutterstock

Các công ty toàn cầu khác như Samsung, Qualcomm, Texas Instruments, SK Hynix, Hayward Quartz Technology, Synopsys và NXP Semiconductors sau đó đã vào Việt Nam. Vào cuối những năm 2010, các công ty trong nước bao gồm Viettel và FPT bắt đầu tham gia vào ngành công nghiệp bán dẫn đang phát triển, ước tính trị giá 6,16 tỷ USD vào năm 2024.

Tuy nhiên, ngành công nghiệp chip của Việt Nam vẫn phụ thuộc nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài và vai trò của ngành này trong chuỗi cung ứng chủ yếu giới hạn ở khâu lắp ráp, thử nghiệm và đóng gói. Việt Nam vẫn chưa sản xuất được chất bán dẫn nào trong nước. Ngay cả những con chip “Made in Vietnam” đầu tiên của FPT Semiconductor cũng được sản xuất tại Hàn Quốc.

Mục tiêu của Việt Nam là thúc đẩy tự lực và nuôi dưỡng những doanh nghiệp tiên phong trong nước. Tháng 8/2022, Thủ tướng Phạm Minh Chính chỉ đạo Viettel triển khai “nghiêm túc, hiệu quả” kế hoạch nghiên cứu phát triển, thiết kế, sản xuất chip trong nước.

-1957-1685291513.png

Logo của SK Hynix tại một triển lãm điện tử ở Seoul, Hàn Quốc. SK Hynix là một trong số các công ty công nghệ đã vào Việt Nam để tận dụng lợi thế của lĩnh vực chip đang phát triển. Ảnh: AP

Tuy nhiên, do tính chất thâm dụng vốn của sản xuất chip, một nhà máy có thể tiêu tốn hàng tỷ đô la, cách tiếp cận thực tế sẽ là khuyến khích các công ty quốc tế thành lập nhà máy tại Việt Nam đồng thời nâng cao dần vai trò của các doanh nghiệp cung cấp trong nước.

Một số lĩnh vực chính cần chính phủ cải thiện. Mặc dù có nguồn nhân tài công nghệ dồi dào, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển phần mềm và dịch vụ công nghệ, hệ thống giáo dục và đào tạo của Việt Nam trong các lĩnh vực liên quan đến công nghệ vẫn còn chậm trong việc tạo ra nguồn nhân lực cần thiết.

Chẳng hạn, trung tâm đào tạo kỹ sư bán dẫn lớn nhất của Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, chỉ đào tạo được khoảng 500 sinh viên tốt nghiệp chuyên ngành mỗi năm. Điều này còn lâu mới đáp ứng được nhu cầu. Theo Giám đốc Khu công nghệ cao Sài Gòn Nguyễn Anh Thi, ngành này có thể cần tới hàng chục nghìn công nhân lành nghề mỗi năm.

-8378-1685291513.png

Intel có kế hoạch tăng đáng kể đầu tư vào Việt Nam trong năm nay, ước tính khoảng 1 tỷ USD. Ảnh: Bloomberg

Hơn nữa, trong khi số lượng các công ty công nghệ trong nước đang tăng lên, hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài Viettel và FPT, các doanh nghiệp có rất ít khả năng mở rộng. Tính đến năm 2021, 99% linh kiện phần cứng trong ngành công nghệ cao được nhập khẩu. Xây dựng một cơ sở cung ứng trong nước đáng tin cậy với năng lực hạn chế như vậy là một thách thức.

Ngoài ra, việc thiếu một chiến lược quốc gia toàn diện cho ngành kinh doanh chất bán dẫn có thể là một trở ngại. Khác với Trung Quốc, Luật Chuyển giao Công nghệ năm 2006 của Việt Nam không bắt buộc các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ cho các đối tác trong nước. Chính sách này khuyến khích các công ty công nghệ cao toàn cầu đầu tư vào Việt Nam mà không sợ bị mất bằng sáng chế.

Tuy nhiên, nếu không có các chính sách khuyến khích hoặc hỗ trợ chuyển giao công nghệ rõ ràng, các doanh nghiệp trong nước sẽ khó tham gia vào chuỗi cung ứng chất bán dẫn với các công ty toàn cầu.

Tuy nhiên, tương lai của ngành công nghiệp bán dẫn Việt Nam rất hứa hẹn. Tập đoàn Samsung của Hàn Quốc đã khai trương một trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D) trị giá 220 triệu USD tại Hà Nội vào tháng 12 và công bố kế hoạch sản xuất hàng loạt chip tại Việt Nam trong năm nay.

Intel có kế hoạch tăng đáng kể đầu tư vào Việt Nam trong năm nay, ước tính khoảng 1 tỷ USD, điều này cũng cho thấy các bánh xe tiến bộ đã bắt đầu chuyển động. Amkor Technology, công ty hàng đầu thế giới về dịch vụ thử nghiệm và đóng gói chất bán dẫn thuê ngoài, cũng sẽ mở nhà máy tại Việt Nam vào cuối năm nay.

-4846-1685291513.png

Việc Việt Nam tiếp tục tập trung vào lĩnh vực chip có thể được hưởng lợi khi Mỹ và Trung Quốc tiếp tục tham gia vào cuộc cạnh tranh địa chính trị. Ảnh: Shutterstock

Khi Mỹ và Trung Quốc tiếp tục tham gia vào cuộc cạnh tranh địa chính trị và với nền kinh tế toàn cầu phụ thuộc nhiều hơn vào chất bán dẫn hơn bao giờ hết, việc Việt Nam định vị chiến lược và tiếp tục tập trung vào lĩnh vực này có thể thu được những lợi ích đáng kể.

Tuy nhiên, việc chuyển đổi từ một người hưởng lợi hoàn cảnh thành một người chơi tự duy trì trong thị trường chất bán dẫn toàn cầu đòi hỏi những thay đổi chính sách quan trọng. Bằng cách tăng cường hệ thống giáo dục và đào tạo, thúc đẩy đổi mới trong nước và xây dựng chiến lược quốc gia rõ ràng, Việt Nam có thể biến “cơn sốt chip” thoáng qua thành một cuộc chạy marathon được dàn dựng bài bản, đảm bảo vị trí đi đầu trong cuộc cách mạng bán dẫn.

Nguyễn Khắc Giang (*)

(*) Nguyễn Khắc Giang là Nghiên cứu viên khách mời tại Chương trình Nghiên cứu Việt Nam của Viện ISEAS–Yusof Ishak. Ông là Cộng tác viên Nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS)