Báo cáo kết quả nghiên cứu “Xu hướng dịch chuyển năng lượng và hàm ý chính sách đối với ngành dầu khí tại Việt Nam” vừa được Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) công bố hôm nay, ngày 19/10.
Đại diện nhóm chuyên gia VESS thực hiện nghiên cứu, ThS. Phạm Văn Long cho biết, nội dung của nghiên cứu tập trung phân tích các động lực hiện nay dẫn tới xu hướng chuyển dịch trên thế giới, bao gồm các cơ hội và thách thức của chuyển dịch năng lượng đối với các ngành và thị trường lao động hiện hữu. Trên cơ sở đó, phân tích xu hướng chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam, bao gồm động lực và hiện trạng hiện nay.
VESS công bố nghiên cứu “Xu hướng dịch chuyển năng lượng và hàm ý chính sách đối với ngành dầu khí tại Việt Nam” |
Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cung cấp các quy định pháp luật đối với khai thác dầu khí cung cấp tại Việt Nam, cũng như cung cấp thêm những thông tin tổng quan về hiện trạng của hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí. Với những thông tin đó, nhóm nghiên cứu đánh giá những cơ hội và thách thức hiện nay đối với ngành dầu khí của Việt Nam trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng.
Xu hướng chuyển dịch năng lượng trên thế giới
Chia sẻ về những phát hiện chính của của báo cáo nghiên cứu, ông Long cho biết, hiện nay xu hướng chuyển dịch năng lượng trên thế giới đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành. Trước những động lực về môi trường và động lực về kinh tế – xã hội thúc đẩy ngày càng nhanh chuyển dịch năng lượng trên thế giới, với nhiều cường quốc đã tham gia mạnh mẽ vào quá trình chuyển dịch, các ngành nghề đã và đang có nhiều thay đổi để thích ứng với biến đổi của thị trường, yêu cầu của xã hội khi đứng trước những cơ hội và thách thức từ chuyển dịch năng lượng. Điển hình là lĩnh vực giao thông với sự tăng trưởng mạnh mẽ của ngành sản xuất xe điện.
Tuy nhiên, trong quá trình chuyển dịch sang các nguồn năng lượng tái tạo, khí đốt vẫn đóng một vai trò quan trọng như một nguồn năng lượng trung gian, hỗ trợ chuyển tiếp sang các nguồn năng lượng sạch. Điện khí được dự báo có xu hướng tăng trưởng trong tương lai, khi được đánh giá là có tính ổn định hơn và giúp hệ thống điện được vận hành trơn tru so với năng lượng tái tạo biến đổi.
Cùng với đó là sự dịch chuyển của thị trường lao động. Khi nhu cầu năng lượng từ các nguồn nhiên liệu hoá thạch dịch chuyển dần sang các nguồn năng lượng sạch hơn, sự chuyển đổi đó sẽ có tác động đến việc làm và chuyển dịch lực lượng lao động từ ngành này sang ngành khác.
Theo dự báo, nếu các quốc gia thực hiện đúng cam kết của mình, tới năm 2030 sẽ có 10,3 triệu việc làm ròng được tạo ra trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và các ngành liên quan. Con số này còn có thể tăng lên tới 22,7 triệu việc làm ròng nếu như các quốc gia được đặt trong bối cảnh hướng tới mục tiêu đưa mức phát thải ròng về “0”.
Lao động, làm việc trong ngành năng lượng hóa thạch thuộc nhóm chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi quá trình chuyển dịch năng lượng. Theo ước tính có khoảng 9,5 triệu việc làm trong ngành năng lượng hóa thạch sẽ bị ảnh hưởng. Dẫu vậy, số lượng việc làm mất đi trong ngành năng lượng hoá thạch hoàn toàn có thể được bù đắp lại bằng số việc làm mới trong ngành năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là sẽ có một bộ phận người lao động không đáp ứng được các yêu cầu về tuổi tác hay kỹ năng phù hợp cho quá trình chuyển dịch.
Xu hướng chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam
Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng chuyển dịch năng lượng của thế giới. Báo cáo nghiên cứu chỉ ra rằng, các động lực dẫn tới chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam xoay quanh hai vấn đề chính là môi trường và kinh tế xã hội. Tăng trưởng nhanh của nền kinh tế, tiến trình đô thị hoá và công nghiệp hoá trong vòng 30 năm qua tại Việt Nam dựa nhiều vào nguồn năng lượng than và dầu đã tạo ra một lượng lớn khí thải nhà kính, một trong các tác nhân chủ yếu gây ra biến đổi khí hậu.
Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đã mất 10 tỷ USD vào năm 2020, tương đương 3,2% GDP bởi các ảnh hưởng từ biến đổi khí hậu. Năm 2021, Việt Nam được xếp hạng 61 trên tổng số 115 quốc gia về mức độ sẵn sàng chuyển dịch năng lượng trong chỉ số Chuyển dịch năng lượng của Diễn đàn Kinh tế Thế giới với số điểm là 54/100, tăng 8 bậc và 3 điểm so với bảng xếp hạng năm 2020.
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trình bản cập nhật của Đóng góp quốc gia tự quyết định (NDC) lên UNFCCC vào năm 2020. Các ngành năng lượng như ngành điện và ngành giao thông vận tải có xu hướng thay đổi nhiều nhất để đáp ứng cam kết của Việt Nam trong việc giảm phát thải khí nhà kính. Ngành dầu khí, với chức năng cung cấp nhiên liệu đầu vào cho các ngành trên cũng đang đối mặt với các cơ hội và thách thức trong bối cảnh chuyển dịch năng lượng trên toàn cầu.
Ngành dầu khí Việt Nam trước bối cảnh chuyển dịch năng lượng
Báo cáo nghiên cứu cho thấy, ngành dầu khí Việt Nam đang đứng trước nhiều khó khăn, do phần lớn các mỏ dầu khí đã phát hiện được đều là mỏ cận biên. Hơn nữa, với tốc độ khai thác như hiện nay, thì chỉ vài chục năm nữa, các mỏ dầu, khí đang khai thác sẽ cạn kiệt. Do đó, việc đẩy mạnh công tác tìm kiếm, phát hiện, thăm dò và khai thác các mỏ dầu khí mới đã và đang được đẩy mạnh. Dự thảo Luật Dầu khí sắp tới được kỳ vọng sẽ tạo cơ hội và thúc đẩy cho quá trình đầu tư, tìm kiếm, phát hiện, thăm dò và khai thác các mỏ dầu, khí mới diễn ra nhanh chóng và thuận lợi.
Tuy nhiên, cho đến bản Dự thảo Luật lần thứ 4 (ngày 22/8/2022), nhóm nghiên cứu vẫn thấy còn một số bất cập. Thứ nhất, Luật Dầu khí mới chỉ quy định các hoạt động ở khâu thượng nguồn, mà không quy định các hoạt động trung và hạ nguồn. Việc này sẽ gây ra hiện tượng xung đột, chồng chéo trong quá trình quản lý chuỗi giá trị dầu khí. Do đó, cần đưa vào Dự thảo các quy định liên quan đến hoạt động dầu khí ở khâu trung và hạ nguồn.
Thứ hai, việc đẩy mạnh ưu đãi thuế không chắc đã giúp cải thiện thu hút đầu tư vào các dự án dầu khí. Dự thảo Luật Dầu khí sửa đổi đang đề xuất đối với các dự án đặc biệt ưu đãi, nhà đầu tư có thể được áp dụng mức giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp từ 25% đến tối đa 50%. Tuy nhiên, theo các chuyên gia ở VESS, trong vòng 10 năm qua, các nước thành viên ASEAN đang cạnh tranh với nhau trong một cuộc đua xuống đáy bằng cách giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp. Mức thuế suất trung bình của ASEAN đã giảm từ 25,1% vào năm 2010 xuống còn 21,7% vào năm 2020. Vì vậy, việc giảm thuế suất của Việt Nam được cho là sẽ không hiệu quả.
Thứ ba, chưa có quy định pháp luật về các cơ chế giải quyết tranh chấp giữa nhà nước Việt Nam với các nhà đầu tư quốc tế. Trong khi đó, phương thức giải quyết các tranh chấp liên quan đến các hợp đồng dầu khí chủ yếu thông qua cơ chế trọng tài quốc tế và các cam kết trong Hiệp định bảo hộ đầu tư (IPA) giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ với Việt Nam. Điều này sẽ khiến cho việc giải quyết tranh chấp kéo dài, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước.
Thứ tư, hiện vẫn chưa có các hướng dẫn cụ thể cho việc điều tra, thăm dò và khai thác các loại dầu khí phi truyền thống. Các loại dầu khí phi truyền thống có đặc điểm về phân bố, đặc tính hóa học tương đối khác biệt so với dầu khí truyền thống, nên các phương pháp để điều tra, thăm dò và khai thác cũng khác biệt, đòi hỏi cần có quy định và hướng dẫn cụ thể. Theo khuyến nghị của nhóm nghiên cứu, các quy định này cần được nghiên cứu và cân nhắc bổ sung trong Dự án Luật sửa đổi sắp tới hoặc trong các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành Luật Dầu khí sửa đổi.
Đối với Việt Nam trong giai đoạn này, điện khí vẫn là nhân tố quan trọng giúp thay thế dần các nguồn nhiệt điện than và hỗ trợ quá trình chuyển đổi từ năng lượng hoá thạch sang năng lượng tái tạo. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng lưu ý rằng, việc phụ thuộc nhiều vào nguồn khí LNG nhập khẩu từ nước ngoài không phải là giải pháp bền vững cho chuyển dịch năng lượng Việt Nam.
“Mặc dù Quy hoạch Điện VIII đề xuất Việt Nam tham gia thị trường LNG với hợp đồng dài hạn để tránh các biến động về giá, tuy nhiên theo các trường hợp tại quốc gia nhập khẩu khí LNG lớn như Nhật Bản, thì trong nhiều trường hợp như nhu cầu tăng cao và lo ngại tình hình cung từ Nga, Nhật Bản vẫn chịu ảnh hưởng bởi biến động giá trên thị trường quốc tế. Ngoài ra, việc đầu tư cho các cơ sở vật chất chuyên dụng cho việc nhập khẩu khí LNG từ nước ngoài đòi khỏi một nguồn vốn lớn với mức độ rủi ro cao trong khâu vận hành hệ thống. Vì vậy, Việt Nam cần tăng cường khai thác các mỏ khí đốt tiềm năng của mình thay vì duy trì sản lượng hiện nay như Quy hoạch Điện VIII đang đề xuất”, nhóm nghiên cứu khuyến nghị./.