Ngày 5/11/2021, toạ đàm “Dự toán Ngân sách Nhà nước năm 2022 – Khả năng đáp ứng mục tiêu về An sinh xã hội” diễn ra với sự tham gia của đại diện Vụ Ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính, các tổ chức xã hội, các chuyên gia, các cơ quan truyền thông và các cá nhân quan tâm. Tọa đàm do Liên minh Minh bạch Ngân sách (BTAP) với sự chủ trì của Trung tâm Phát triển và Hội nhập (CDI) và Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược Việt Nam (VESS) phối hợp tổ chức.

Các đại biểu tham dự Toạ đàm đã thảo luận về các giải pháp huy động và sử dụng Ngân sách Nhà nước để đạt được các mục tiêu về an sinh xã hội năm 2022 cũng như các vấn đề đặt ra với các chính sách an sinh, xã hội trong thời gian tới nhằm hỗ trợ cho người dân, doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi Covid-19.

Phát biểu tại diễn đàn, ông Nguyễn Minh Tân, Phó Vụ trưởng Vụ Ngân sách nhà nước, Bộ Tài chính cho biết: “Dự toán ngân sách năm 2022 vừa được Chính phủ trình Quốc hội đang được xây dựng theo hướng tích cực, thích ứng với bối cảnh dịch COVID-19 có thể kéo dài và xuất hiện nhiều biến chủng mới có khả năng lây lan nhanh. Đồng thời, dự toán theo dự báo mức độ phục hồi kinh tế cũng như tăng trưởng năm 2022 khả năng thấp hơn năm 2021 trên bình diện toàn cầu; cũng như tình hình các quốc gia sau một thời gian nới lỏng chính sách tiền tệ, tài khoá có thể sẽ thắt chặt lại để kiểm soát lạm phát, tình hình kinh tế vĩ mô. Dự kiến tăng trưởng kinh tế năm 2022 đạt từ 6-6,5% so với năm 2021, tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân khoảng 4%; giá dầu thô 60 USD/thùng; tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu khoảng 5,2%.

PGS.TS. Vũ Sỹ Cường, Phó Trưởng Bộ môn Phân tích chính sách tài chính, Khoa Tài chính Công – Học viện Tài chính 

PGS.TS. Vũ Sỹ Cường, Phó Trưởng Bộ môn Phân tích chính sách tài chính, Khoa Tài chính Công – Học viện Tài chính nhận định: “Dự thảo NSNN 2022 không chi tiết về chi đầu tư như chi thường xuyên vì vậy rất khó đánh giá liệu NSNN có đủ đảm bảo 20 % cho giáo dục, 2 % cho KHCN, 1 % cho Môi trường như yêu cầu của quy định hiện hành. Cần có sự nhất quán trong các chỉ tiêu dự toán NSNN qua các năm, nếu có thay đổi cần phải được giải thích đầy đủ. Đồng thời, rất cần có phân tích đánh giá kỹ hơn về chi NSNN 2022, nhất là chi hỗ trợ doanh nghiệp và người dân vượt qua đại dịch.”

TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược (VESS)

TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chiến lược (VESS), thành viên của Liên minh BTAP, nhận định: “Nhìn chung bản dự thảo NSNN 2022 đã phản ánh được tinh thần chia sẻ hành động và huy động nguồn lực đương đầu với khó khăn trong đại dịch hiện nay. Tuy nhiên, ngân sách cần được cụ thể hóa hơn, minh bạch hơn trong việc nêu bật nguồn ngân sách sẽ được sử dụng như thế nào, chấp hành ra sao, nhằm hướng tới những đối tượng khó khăn nhất, cụ thể ở đây tôi muốn nhấn mạnh tới là người lao động di cư tại các đô thị chịu ảnh hưởng dịch nặng nề khiến họ phải mất việc hoặc ngừng việc và trở về quê quán. Có một ngịch lý cần lưu ý là, những tỉnh nghèo nhất thường đồng thời có nhiều người di cư nhất, thì lại là những tỉnh cần chi tiêu nhiều nhất trong việc hỗ trợ người lao động di cư trở về. Chính vì thế, cần có sự phân bổ ngân sách cho các tỉnh khó khăn nhất theo một cơ chế đặc biệt, và giám sát chặt chẽ sự chấp hành.”

Ông Nguyễn Quang Thương, Quyền giám đốc điều hành Trung tâm Phát triển và Hội nhập (CDI), tổ chức điều phối Liên minh BTAP, cho rằng: “Chính phủ Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp để hỗ trợ cho người lao động chịu ảnh hưởng của Covid qua các chính sách như Nghị quyết 68/NQ-CP, Nghị quyết 116/NQ-CP… Tuy nhiên, mức hỗ trợ cao nhất theo như NQ 68/NQ-CP và NQ 116/NQ-CP vẫn thấp hơn mức lương tối thiểu vùng, chưa kể hỗ trợ của Chính phủ là 1 lần trong khi mỗi đợt dịch Covid bùng phát kéo dài ít nhất là 2 tháng. Theo tôi, Chính phủ Việt Nam có thể tăng mức hỗ trợ cho bằng tiền mặt cho người dân, qua đó kích cầu, góp phần hoàn thành mục tiêu NSNN năm 2022.”

Cùng chung nhận định này, ThS. Phạm Minh Thu, Viện Khoa học Lao động và Xã hội (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) cho rằng, việc hỗ trợ hiện nay đối với người dân và người lao động đang ở mức thấp không đáp ứng mức sống tối thiểu và dự báo chưa đầy đủ mức độ tác động của đại dịch COVID-19 đến đời sống người lao động. Mức hỗ trợ một lần cho lao động tự do không đáp ứng mức sống tối thiểu còn mức hỗ trợ lao động có hợp đồng lao động trong một số trường hợp không bằng tiền lương tối thiểu quy định của Nhà nước. Quy định “một đối tượng chỉ hưởng một lần trong một chính sách hỗ trợ” trong khi phạm vi chính sách kéo dài hết năm 2021 cho thấy chưa dự báo hết tình hình tác động của dịch COVID-19 đến đời sống người dân, người lao động, Ths. Phạm Minh Thu nói.

Chia sẻ nhanh một số kết quả từ nghiên cứu đánh giá về phúc lợi xã hội cho người khuyết tật, thực hiện từ tháng 7 đến tháng 12/2021, Bà Nguyễn Thị Lan Anh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển cộng đồng (ACDC) cho biết: “Khảo sát các nguồn hỗ trợ dành cho người khuyết tật thời gian qua cho thấy, từ Chính quyền chiếm 39.2%; từ các tổ chức chính trị xã hội địa phương (Mặt trận tổ quốc, Đoàn Thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ…) chiếm 18,8%; từ tổ chức của/vì người khuyết tật: chiếm 25.7%; từ tiền trợ cấp hoặc các hỗ trợ khác về tài chính (giảm thuế, vốn vay với lãi suất thấp hơn…) chiếm 54,2%… Tuy nhiên, các khoản hỗ trợ mà người khuyết tật được nhận là quá ít ỏi so với thu nhập bị giảm do giãn cách xã hội, khiến cuộc sống của họ vô cùng khó khăn.”

Đại diện thành viên của Mạng lưới Tiên Phong cũng chia sẻ về tác động của Covid-19 và hiệu quả thực hiện các gói hỗ trợ của Chính phủ đối với nhóm dân tộc thiểu số hiện cũng là những người lao động có hợp đồng hoặc lao động tự do. Nhóm mong muốn trong thời gian tới Chính phủ tiếp tục các chính sách hỗ trợ, và hỗ trợ kịp thời cho người dân gặp khó khăn.

Bà Nguyễn Hoàng Yến, Điều phối Mạng lưới Hành động vì lao động di cư M.net chia sẻ về việc khoảng cách giữa các chính sách từ Trung ương và việc triển khai thực tế của các địa phương. Chính sách để mở cho các tỉnh triển khai, các địa phương căn cứ trên hướng dẫn của Trung ương để triển khai hỗ trợ, tuy nhiên sẽ căn cứ vào khả năng ngân sách của địa phương. Đến thời điểm hiện tại, ngay cả Hà Nội và Hồ Chí Minh, còn rất nhiều đối tượng vẫn chưa nhận được hỗ trợ.

Để thực hiện mục tiêu an sinh xã hội trong thời gian tới, bà Nguyễn Thu Hương, Quản lý cao cấp chương trình Quản trị, tổ chức Oxfam tại Việt Nam cho rằng, Việt Nam nên quy định mức phân bổ ngân sách tối thiểu cho an sinh xã hội (có thể từ 6-10% GDP) và tăng chi từ ngân sách nhà nước cho chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện, để người lao động tự do có đầy đủ các quyền lợi tương tự như bảo hiểm xã hội bắt buộc.

Bên cạnh các chính sách hỗ trợ, một số chuyên gia cho rằng người dân đang cần các chương trình trợ cấp tiền mặt. ThS. Phạm Minh Thu đề xuất, cần tăng cường chương trình trợ cấp tiền mặt với ngân sách đủ lớn, thực hiện càng sớm càng tốt và tiếp cận theo cách phổ cập nhóm như hộ có trẻ em, hộ có người già, người khuyết tật… Mức hỗ trợ tiền mặt phải đạt “mức sống tối thiểu” và thời gian hỗ trợ tiền mặt tương ứng với thời gian cách ly, giãn cách cộng đồng. Chi đảm bảo an sinh xã hội cần được coi là khoản chi đầu tư phát triển, hoặc đưa vào chính sách thường xuyên hơn là sử dụng Quỹ Dự phòng.

Tài liệu Tọa đàm vui lòng xem tại đây.